Hiển thị các bài đăng có nhãn chiến lược. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn chiến lược. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 23 tháng 12, 2009

Window Dressing

Window Dressing (trang trí rèm cửa sổ) là chiến thuật được các nhà quản lý quỹ mutual fund và quản lý danh mục đầu tư sử dụng vào thời điểm cuối năm, hoặc cuối quý để cải thiện bề ngoài của hiệu quả vận hành quỹ/danh mục trước khi trình bày cho khách hàng hoặc cổ đông. Để mà "thay rèm", quản lý quỹ sẽ bán cổ phiếu có mức lỗ lớn và mua vào những cổ phiếu đanh tăng giá cao khi gần cuối quý. Những cổ phiếu này sẽ được báo cáo là một phần tỷ lệ nắm giữ của của quỹ.

Rõ ràng đây là một kỹ thuật mang tính lừa dối để che mắt cổ đông hay khách hàng, làm cho họ tin rằng quỹ đang nắm những cổ phiếu có hiệu quả đầu tư tốt khi các báo cáo hiệu quả vận hành quỹ và danh sách các tài sản nắm giữ được gởi cho khách hàng.

Một biến thể khác là việc các quỹ mutual fund mua các cổ phiếu không đúng với tiêu chí của quỹ, nhưng quản lý quỹ cũng dùng biện pháp tương tự như trên để che mắt nhà đầu tư.

Window dressing cũng có một trường hợp khác là khi một doanh nghiệp dùng những kỹ thuật tiểu xảo kế toán để làm cho bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (báo cáo lãi lỗ) trở nên tốt đẹp khả quan hơn thực tế.

Việc window dessing nói chung chỉ có tác động tạm thời trước mắt, nhưng về dài hạn thì không thể dấu mãi được (nếu không có biến chuyển).

Thứ Hai, 23 tháng 11, 2009

Bí Quyết Thành Công Của Jim Rogers

James Beeland Rogers, Jr. là một nhà đầu tư gốc Mỹ. Ông bắt đầu kinh doanh từ khi lên 5 bằng việc bán đậu phọng. Rogers tốt nghiệp Yale University và có một bằng BA về triết học, chính trị và kinh tế học ở Oxford University.
Rogers trở thành một huyền thoại Wall Street khi ông cùng George Soros lập quỹ founded the Quantum Fund.
Sau sự nghiệp làm một quản lý quỹ hedge fund, hông hiện thỉnh thoảng dạy tài chính ở Columbia University, và bình luận trên CNBC Cable Network.



Transcript của cuộc phỏng vấn Jim Rogers mới đây được thực hiện bởi tờ Financial Times sẽ tiết lộ vài điều về bí quyêt thành công của ông.

Bí quyết thành công của ông là gì?
Bởi vì tôi không thông minh hơn hầu hết mọi người, nên tôi sẵn sàng làm việc chăm chỉ hơn hầu hết mọi người. Tôi luôn chuẩn bị để kiểm tra những tri thức thông thường. Nếu tất cả mọi người nghĩ ra một hướng, đó có thể là sai lầm. Nếu bạn chỉ được ra rằng điều đó là sai, bạn rất có thể kiếm được rất nhiều tiền.

Chiến lược đầu tư cơ bản của ông là gì?

Mua thấp bán cao. Tôi cố gắng tìm những thứ rất rẻ, ở nơi đang có chuyển biến tích cực. Sau đó tôi làm đủ bài tập ở nhà để chắc chắn rằng tôi đã đúng. Nó phải rẻ vì nếu tôi sai thì tôi sẽ không mất nhiều tiền.

Mỗi khi tôi mắc sai lầm, thường là vì tôi không làm đủ bài tập.

Đừng có coi thường giá trị của việc thẩm định due dilingence. Trong thập niên 1060, General Motors là công ty thành công nhất thế giới. Một ngày nọ, một chuyên viên phân tích của GM tới ban giám đốc với thông điệp "Người Nhật đang tới".
Họ phớt lờ anh ta. Những nhà đầu tư mà làm bài tập về nhà đã bán cổ phiếu GM và thay vào đó mua cổ phiếu Toyota.
Tôi hiên không mua cổ phiếu nào. Nếu có thứ nào đang bị định giá thấp thì đó hàng hóa cơ bản và một vài đồng tiền.

Picasso hay Art Deco có thể là một khoản đầu tư không?

Tôi đang ở trong một giai đoạn mà tôi không thấy hứng thú sở hữu hay chất đống những thứ đó.

Người ta nên bỏ tiền vào đâu trong suy giảm kinh tế?

Chỉ nên đầu tư vào những thứ mà bạn có biết vài điều về chúng. Sai lầm phần lớn mọi người phạm phải là họ nghe theo những mách nước sốt dẻo, hoặc hành động theo những thứ họ đọc trên những tạp chí.

Hầu hết mọi người đều biết rất nhiều về một thứ gì đó, vì vậy họ chỉ nên bám lấy những gì họ biết và mua những khoản đầu tư trong lĩnh vực đó. Đó là cách bạn làm giàu.

Bạn không thể làm giàu bằng cách đầu tư vào những thứ bạn chẳng biết gì.

Thứ Tư, 4 tháng 11, 2009

Trắc Nghiệm Đầu Tư Của Peter Lynch

BusinessWeek có bài lưu trữ (11/09/1998) rất hay về một bài kiểm tra trắc nghiệm nhà đầu tư của Peter Lynch: PETER LYNCH'S INVESTOR TEST

Tuy nội dung 10 câu hỏi này hoàn toàn về về thị trường chứng khoán Mỹ, nhưng ta có thể thấy được quan điểm về đầu tư của nhà đâu tư huyền thoại này.
Bài test này do chính Peter Lynch viết, riêng phần đáp án là được tham khảo từ Fidelity Investments, và các nguồn tin đại chúng.



CÂU HỎI

1. Lý do cơ bản giá cồ phiếu tăng theo thời gian là

    A. Nhà đâu tư bỏ thêm tiền mới vào mua cổ phiếu
    B. Các công ty tăng trưởng lợi nhuận trên cổ phiếu (earnings per share) theo thời gian
    C. Nhà đầu tư thường luôn lạc quan.
    D. Dân số Mỹ tăng.

2. Có bao nhiêu lần thị trường điều chỉnh (giảm 10% hoặc hơn) kể từ 1970?

    A. 5
    B. 9
    C. 12
    D. 21

3. Năm tiêu đề tin tức xuất hiện trên các báo vào quý 4 năm 1990:

    "The Real Estate Bust," Newsweek
    "Uncertainty Reigns for U.S. Economy," The Wall Street Journal
    "Can America Still Compete?" Time
    "Can Your Bank Stay Afloat?" U.S. News & World Report
    "Troops March Closer to War," Washington Post

Lợi nhuận đấu tư thị trường cổ phiếu năm tiếp theo là?

    A. -6.8%
    B. 3.4%
    C. 12.2%
    D. 30.5%

4. Nếu bạn tính toán thời điểm của thị trường trong suốt 20 năm qua, và có điều không may là không còn cổ phiếu và chỉ có tiền mặt trong suốt 15 tháng "tốt nhất" (khi mà giá cổ phiếu tăng mạnh nhất), bạn sẽ bỏ phí 76% lợi nhuận thu được bởi một nhà đầu tư cồ phiếu với chiến thuật mua và nắm giữ.

    A. Đúng
    B. Sai

5. Quyết định có ảnh hưởng lớn nhất đến rủi ro và lợi nhuận của khoản đầu tư của bạn là:

    A. Quyết định phân phối tiền đầu tư như thế nào vào các loại tài sản (cồ phiếu, trái phiếu, hay tiền mặt)
    B. Quyết định nên mua cổ phiếu riêng rẽ hay quỹ mutual funds
    C. Quyết định cổ phiếu hay chứng chỉ quỹ mutual funds nào để mua

6. Giá cổ phiếu giảm trong suy thoái, nhưng chúng có xu hướng phục hồi cùng lúc khi nền kinh tế phục hồi.

    A. Đúng
    B. Sai

7. Khoảng thời gian 10 năm nào cho thấy tổng lợi nhuận đầu tư cao nhất của S&P 500 kề từ 1926?

    A. Tháng 6, 1949 đến tháng 5, 1959
    B. Tháng 6 1980 đến tháng 5, 1990
    C. Tháng 1, 1988 đến tháng 12, 1997

8. Chỉ số S&P 500 giảm 21.5% vào tháng 10, 1987, tháng mà khủng hoảng 1987 (Crash of '87') xảy ra. Tổng lợi nhuận đầu tư vào trái phiếu chính phủ trung gian (intermediate government bonds) trong tháng này là?

    A. -10.8%
    B. -5.3%
    C. 1.2%
    D. 3.0%
    E. 14.3%

9. Kể từ 1926, cổ phiếu công ty nhỏ tốt hơn cổ phiếu công ty lớn.

    A. Đúng
    B. Sai

10. Một khoản đầu tư $1,000 vào thì trường cổ phiếu Mỹ năm 1982 sẽ tăng lên một con số ngạc nhiên nhày hôm nay là $11,271. Những nước nào sau đây sẽ còn tốt hơn?
(chú ý bài test này khoảng 11/1998)
    A. Britain (Anh)
    B. Sweden (Thụy Điển)
    C. The Netherlands (Hà Lan)
    D. Hong Kong
    E. Tất cả những nước trên

ĐÁP ÁN VÀ GIẢI THÍCH

1.
Đáp án: B. Về cơ bản giá cổ phiếu sẽ theo sát lợi nhuận doanh nghiệp. Kể từ sau thế chiến World War II, lợi nhuận tăng 54 lần, còn thị trường cổ phiếu tăng đến 63 lần. Trong vòng 6 năm trở lại đây, lợi nhuận doanh nghiệp là gần như gấp đôi, S&P 500 thì tăng 2.5 lần. Có sự liên hệ chặt chẽ ờ đây.

Dĩ nhiên, những yếu tố ngắn hạn có ảnh hưởng thị trường, và lượng tiền khổng lồ đầu tư vào cổ phiếu thông qua các quỹ 401(k) plans và sự phát triển và phổ biến của các quỹ mutual funds đã có tác động tốt. Nhưng nếu, ví dụ, lượng tiền tương tự đổ vào cổ phiếu mà lợi nhuận các doanh nghiệp vẫn dậm chân hay giảm sút, tôi tin giá chứng khoán năm 1998 dễ hiểu sẽ còn giảm xuống hơn nữa.

Vì vậy, nếu bạn tin rằng nền kinh tế sẽ tiếp tục tiến triển, và doanh nghiệp Mỹ tiếp tục tăng lợi nhuận, thì sẽ thật có lý khi sỡ hữu cổ phiếu.

Nguồn: Ibbotson Encorr, Haver Analytics, Fidelity Investments, first quarter, 1998.

2.
Đáp án: C. 12 lần điều chỉnh kể từ 1970 nghĩa là trung bình cứ 2.5 năm sẽ có một lần điều chỉnh. Chúng xảy ra vào các năm 1970, 1971, 1973-1974, 1977, 1979, 1980, 1981, 1984, 1987, 1989-1990, 1990, and 1997. Mức điều chình 10% có thể không ghê lắm nhu7nng nếu xem lại thế này: : Mùa hè 1998 chỉ số Dow leo lên 9,000 điểm. 10% của 9,000, sẽ là một con số khiến bạn phải mở mắt to: rớt 900 điểm.

Nguồn: DRI/McGraw-Hill, Fidelity Investments, 1998.

3.
Đáp án: D. 30.5%. Điều này ý nói gì? Đừng đề những tiêu đề báo chí làm bạn sợ hãi không dám mua cổ phiếu. Bạn hãy bám kế hoạch của mình trong suốt thời gian suy giảm, điều chỉnh hay thị trường con bò.

1990 là một năm khủng khiếp. Xe tăng của Saddam Hussein lăn bánh vào vào Kuwait. Nửa triệu lính Mỹ gợi tới vịnh Persian Gulf, cùng hàng túi chứa đồ.  Ngân hàng, tiết kiệm, cho vay đều trên bờ vực đổ vỡ (on the ropes). Lạm phát, lãi suất ngày một tăng. Khi suy giảm bắt đầu, thì người dân bị mất việc. Những tin tức thảm hại, và nhà đầu tư thì lo sợ. Ở Wall Street, chỉ số Dow rớt hơn 21%, từ 3,000 lúc tháng 7 xuống 2,365 vào tháng 10. (21% nếu Dow sụt giảm trong mùa hè 1998 sẽ lớn hơn 1,800 đểm nhiều.)

Trái với những u tối năm 1990, 1991 là một năm tuyệt vời với cổ phiếu. Ấn tượng hơn, chỉ số S&P 500 đã liên tục tăng từ 30.5% năm 1991 nên gấp 3 lần năm 1998. Những người bám thị trường (market timers) mà không có chứng khoán đã bỏ lỡ khoảng 7 năm tăng trưởng lớn nhất trong lịch sử Mỹ hiện đại.

Nguồn: Bloomberg, Ibbotson Encorr, General Accounting Office, Fidelity Investments, 1998.

4.
Đáp án: A. Đúng. Đừng cố gắng tính toán thời điểm thị trường (time the market). Tính toán chi li, bạn bõ lỡ những lợi nhuận quan trọng. Nếu bạn đầu tư $1,000 vào S&P 500 năm 1978, 20 năm sau khoản đầu tư của bạn nhân lên $21,750.  Tuy nhiên, nếu bạn nhảy ra khỏi thị trường trong thời điểm 15 tháng tốt nhất, $1,000 chỉ tăng lên có $6,010. Cái đó chỉ hơn Treasury bills một chút thôi.

Nguồn: Ibbotson Encorr, Fidelity Investments, 1998.

5.
Đáp án: A. Lựa chọn đúng quỹ là xem xét thứ hai. Một nghiên cứu học thuật về pension-plan managers cho thấy 91.5% sự khác biết giữa hiệu suất lợi nhuận một portfolio và một portfolio khác nằm ở việc phân bổ các tài sản. Vì thế việc bạn chia danh mục thanh cổ phiếu, trái phiếu, tiền mặt như thế nào là rất quan trọng. Hãy tìm sự phân chia phù hợp với mức chấp nhận rủi ro, và lịch trình bạn sẽ cần tiền. Một khi bạn có quyết định quan trọng đó, hãy chọn khoảng đầu tư riêng cho bạn và bám lấy kế hoạch của mình.

Nguồn: Brinson, Singer, and Beebower (Financial Analysts Journal/ May-June, 1991), Fidelity Investments, 1998.

6.
Đáp án: B. Sai. Lịch sử cho thấy giá cổ phiếu giảm khi bước vào khủng hoảng, nhưng sau đó phục hồi trước khi toàn bộ nền kinh tế phục hồi. Lý do giá cổ phiếu phục hồi sớm là do vài nhà đầu tư mong đợi vào sự tăng trưởng của lợi nhuận doanh nghiệp và bắt đầu mua thêm cổ phiếu. Tiềm năng lợi nhuận tăng lên ở thị trường cổ phiếu làm cho cổ phiếu có giá trị hơn, vì nhà đầu tư sẵn sàng trả giá cao hơn để được những lợi nhuận đó.

Trong suốt thời kỳ như vậy, những bàn tán ồn áo khó chịu, giá cổ phiếu thì ngày một xuống, lượng tin xấu từ phương tiện đại chúng, bạn bè, đồng nghiệp lại càng tăng. Họ luôn nhắc nhỏ bạn rằng suy giảm kinh tế suy giảm như thế nào. Đừng hoảng loạn. Háy bám lấy đầu tư cổ phiếu của mình. Và cùng tiến với nó.

Nguồn: Ibbotson Encorr, National Bureau of Economic Research, Fidelity Investments, 1998.

7.
Đáp án: A. Nhà đầutư cổ phiếu nhận được phần thưởng lớn trong suốt thập niên 1949-1959 khi mà S&P 500 đem lại lợi nhuận trung bình hàng năm là 21.4% từ tháng 6, 1949 đến tháng 5, 1959. Nền kinh tế phát triển nhanh vào thập niên 1950, trong khi lạm phát và lãi suất đều giữ ở mức thấp. Giá cổ phiếu rẻ, vào đầuthập niên, S&P 500 bán với P/E chỉ có 6. (Lo sợ một cuộc khủng hoảnh 1929-1939 lặp lại, nhiều nhà đầu tư không còn tin tưởng vào cổ phiếu và tránh xa chúng. Kết quả là cổ phiếu của những công ty lớn chỉ bán với giá gấp 6 lần lợi nhuận. chỉ bằng một nửa giá thông thường.)

Đây quả là sự kết hợp như mơ: nền kinh tế ổn định, lạm phát và lãi suất thấp, và giá cổ phiếu hời. $1,000 đầu tư tháng 6, 1949 tăng lên khoảng $6,970 vào tháng 5, 1959! Múc này cao hơn nhiều so với 10 năm 1988-1997, khi lợi nhuận bình qua6nha2ng năm là 18.9% ($1,000 tăng lên khoảng $5,670).

Những sự kiện chính của thập niên 6/1949-5/1959: xây dựng sau chiến tranh bùng nổ, giá cả hàng hóa cơ bản (commodities) cao hơn, việc làm bắt đầu trọng hệ thống liên bang, chiến tranh Korea War, khởi đầu chiến tranh lạnh. Lạm phát trung bình ở mức thấp 2%, trong khi sản lượng công nghiệp tăng gần 6%.

Nguồn: Ibbotson Encorr, Haver Analytics, DRI, Fidelity Investments, 1998.

8.
Đáp án: D. 3.0%. Trái phiếu đã tăng trưởng tốt khi thị trường cổ phiếu đổ vỡ -- thêm một lý do để nắm giữ chúng.
Tháng 10, 1987, được viết trong sách giáo khoa là ví dụ của "flight to quality" (bay đi tìm chất lượng) khi mà những nhà đầu tư sợ hãi tìm chỗ trú chân trong những trái phiếu và  Treasury bills. Trái phiếu trở nên có giá trị hơn sau khi Fed giảm lãi suất xuống mức để tạo "thanh khoản" cho hệ thống ngân hàng. Tổng lợi nhuận đầu tư trái phiếu chính phủ dài hạn tháng đó là 6.2%.

Nguồn: Ibbotson Encorr, Fidelity Investments, 1998.

9.
Đáp án: A. Đúng. Công ty nhỏ lãi 12.7%/năm từ 1926 đến 1997, trong khi cổ phiếu cty lớn hơn lời có 11%. Tại sao cổ phiểu nhỏ (cổ phiếu cty nhỏ) lại tốt hơn? Những cỗ máy tài chính như Wal-Mart, Home Depot, Intel, và Microsoft khởi nghiệp từ những công ty nhỏ, rồi sau đó tăng dần lợi nhuận không ngừng cho đến khi họ trở thành những công ty lớn. Nhà đầu tư thamgia ngay từ đầu có thể được lợi từ 10, 20, thậm chí 100 lần. Đầu tư vào những công ty nhỏ thì mạo hiểm hơn đầu tư vào những cty lớn, bởi vì công ty nhỏ dễ bị tác động bời trì trệ kinh tế và giá cổ phiếu lên xuống rất mạnh.

Nguồn: Ibbotson Encorr, Fidelity Investments, 1998.
Những cty được nhắc tên chỉ là mục đích tham khảo, và không được xem là khuyến cáo, hay khuyến nghị nên đầu tư.


10.
Đáp án: E. Tất cả những nước trên. Mọi thị trườn nước ngoài kể trên để tăng trưởng tốt hơn, tính bằng dollars, thị trường Mỹ từ 31/12/1982 tới 31/12/1997. Nước tăng cao nhất là Netherlands (Hà Lan)
$1,000 đầu tư năm 1982 tăng lên $23,346 năm 1997.

Một vài thập niên sẽ tốt hơn(so với thập niên khác) đối với cổ phiếu quốc tế, nhưng nhà đầu tư dài hạn cũng nên suy xét chuyển dịch một phần tài sản ra nước ngoài. Bằng cách phân bổ 15% trong danh mục đầu tư của mình cho cổ phiếu quốc tế từ 1970-1997, bạn sẽ giảm biến động giá mà không sợ giảm lợi nhuận.

Luôn nhớ rằng cổ phiếu quốc tế không phải lúc nào cũng đi lên. Chúng cũng có điều chỉnh và thị trường con bò hệt như thị trường trong nước, Từ đỉnh 1989 tới 4/1998, thị trường Nhật Bản  giảm hơn 50%. Nếu bạn đầu tư vào đó, dù bạn là người Nhật hay Mỹ, bạn cũng mất tiền. Nước Italy cũng mất gần 50% từ 1990-1992. Trong năm ngoái, Singpaore và Hong Kong giảm 50%, còn Malaysia rớt gần 75%.

Những thị trường mới nổi càng nhỏ thì lại càng thấy rủi ro cho nhà đầu tư hơn thị trường phát triển lớn hơn. Lựa chọn những nước tốt nhất không phải chuyện dễ, đó cũng là lý do tại sao tốt nhất nên đa dạng hóa danh mục đầu tư ở thị trường quốc tế.

Đầu tư nước ngoài sẽ có rủi ro lớn hơn ở Mỹ, gồm cả rủi ro về chính trí, kinh tế, và cả rùi ro về biến động tỷ giá ngoại tệ.

Nguồn: Morgan Stanley Capital International, Fidelity Investments, 1998.

Chủ Nhật, 25 tháng 10, 2009

Mua Nhà Cho Thuê

Đã từ lâu người dân, đặc biệt là các chủ nhà thường mua nhà cho thuê lại (buy-to-let) để kiếm thêm chút lời. Tuy nhiên, các ngân hàng lại xếp việc mua nhà này vào hình thức vay tiêu dùng nên phải chịu một mức lãi suất thoả thuận dao động từ 12-14%.
Ngân hàng Nhà nước vừa ban hành công văn gởi các ngân hàng thương mại yêu cầu không áp dụng lãi suất thỏa thuận mà áp dụng lãi suất trần 10.5% giống như hoạt động kinh doanh. Riêng vay nhà mà người vay trả lãi bằng lương thì vẫn áp dụng lãi suất thoả thuận riêng.



Như vậy, có thể hiểu là ngân hàng trung ương đã có bước tiến có lợi hơn cho người vay tiền. Mặc dù vậy, theo như báo chí thì trước khi ngân hàng nhà nước có đợt thanh tra về hoạt độn cho vay tiêu dùng thì nhiều ngân hàng thậm chí không áp dụng lãi suất trần cho hoạt động kinh doanh. Như Tuổi Trẻ đưa tin thì nhiều ngân hàng cho vay để kinh doanh chứng khoán với lãi suất 15-15,6%/năm.

Vậy, có một vấn đề đặt ra là tính minh bạch của hoạt động tín dụng. Dĩ nhiên, người Việt Nam nào, đặc biệt là những người đã từng đi vay ngân hàng, cũng hiểu là phải dùng tiền lót tay ngay cả khi mình thỏa mọi điều kiện. Tính minh bạch cũng là vấn đề cân nhắc. Như bạn thấy là Fannie Mae và Freddie Mac đã làm thế giới quay cuồng vì hoạt động cho vay dưới chuẩn của mình.

Khi giá nhà đất xu hướng tăng thì hoạt động đầu tư cho residential property cũng nhộn nhịp theo. Khi ngân hàng trung ương xếp vào hoạt động kinh doanh, thì tất có sự gia tăng nhất định về nhu cầu đầu tư.

Ở góc độ cá nhân của một nhà đầu tư, thì đó là chuyện lời lỗi riêng của bản thân. Anh phải tính toán, dự báo tốt, chuyên nghiệp hơn thì anh tính NOI, tỉ suất lợi nhuận v.v.. Theo tôi, ở Việt Nam thì thường thấy người ta trả góp mua nhà, rồi đem nhà đó cho thuê lại. Tôi cũng có bạn làm cách này, nhưng nếu tính kỹ thì rất không ổn. Trả góp là mang nợ, ai cũng hiểu là nếu có tiền trả một cục thì okay liền. Trả góp thì mình vừa đóng tiền cọc (prepayment), và lãi (interest) + gốc (principal) hàng tháng. Còn ngân hàng cho vay lại lấy tiền của mình cho người khác vay.

Ở góc độ vĩ mô, ngân hàng làm chủ khoản vay của bạn. Nếu tình hình kinh tế bất lợi, dễ xảy ra chuyện ép lãi suất, mất khả năng chi trả, thanh lý, phát mãi tài sản thế chấp. Bất lợi thuộc về người cho vay. Nếu có quá nhiều người đi vay, nhiều ngân hàng tích cực cho vay, nhiều người không thể thanh toán nhân hàng, ngân hàng phát mãi nhưng vào thời điểm thị trường lình xình hay đóng băng thì hậu quả là một cuộc đổ vỡ tín dụng.

Do đó, rất cần sự quản lý chặt từ ngân hàng trung ương về hoạt động mua nhà cho thuê, đặc biệt là trả góp thế chấp.

Thứ Hai, 12 tháng 10, 2009

Chiến Lược Mua và Nắm Giữ (Buy And Hold) Mất Sự Tin Cậy

Trong khi nhiều nhà tư vấn tài chính (financial advisers) vẫn tiếp tục với chiến lược đầu tư mua và nắm giữ (buy-and-hold) thì số khác tỏ vẻ nghi ngờ sự hiểu quả của cách đầu tư này.

Theo cuộc điều tra 2009 Industry Attitudes survey của InvestmentNews về các nhà tư vấn tài chính cho thấy một xu hướng thay đổi trong việc lựa chọn chiến lược đầu tư.

Survey này có trên 700 người trả lời:
12.5% không còn tin vào đầu tư kiểu nắm và giữ;
49.6% nói rằng họ sẽ nhanh chân hơn để thay đổi wholesale portfolio với những điều kiện nhất định;
37.8% nói rằng họ sẽ sẵn sàng hơn để bán chứng khoán khi chúng đạt được mức giá mong muốn.

Khi hỏi về việc thị trường đi xuống có ảnh hưởng đến sản phẩm, dịch vụ tư vấn:
Chỉ 14% nói sẽ bảo thủ hơn;
Chỉ 12% nói sẽ đơn giảm hóa các chiến lược với những khoản đầu tư plain-vanilla (tạm gọi đầu tư đơn thuần);
80% thì nói kinh tế suy thoái làm họ trở thành tư vấn tốt hơn.

Có thể thấy các nhà tư vấn đang chuyển hướng sang đầu tư năng động hơn.

Những tranh cãi về chiến lược đầu tư mua và năm giữ không phải giờ mới bắt đầu. Warren Buffett là nhà đầu tư vĩ đại thành công với chiến thuật nắm và giữ. Song, trong năm 2008 ông cũng lỗ khoảng 9.6 tỉ USD theo giá trị sổ sách (thông tin Buffett tiết lộ trong annual report là giá trị của Berkshire  giảm 9.6%). 2008 là năm tồi tệ cho cả giới tài chính nên dễ hiểu điều này ảnh hưởng đến tấm lý hoài nghi về sự hiệu quả của chiến thuật mua và nắm giữ.
Tôi thì cho rằng không phải ai cũng hoàn hảo. Ngay cả việc mua cổ phiếu của Goldman Sachs  thì năm 2009 tính ra cũng đã mang lại lợi nhuận cho Buffett.
Mặc dù vậy, tôi vẫn thích một kiểu đầu tư năng động hơn, vì dù sao buy-and-hold cũng là đầu tư thụ động. Thụ động quá thì sẽ bất lợi khi thị trường đi xuống, và khi lên nhanh quá thì lại dẫn đến tham lam không thoát kịp khi thị trường điều chỉnh. Quan trọng vẫn là xác định thời điểm.

Một thông tin khác từ Financial Times, tỉ phú George Soros cũng sẽ đầu tư 1 tỷ USD vào công nghệ xanh, dĩ nhiên là cái nhìn dài hạn. Trước đây, Warren Buffett và Bill Gates cũng đã đầu tư vào các công ty xử lý chất thải.