Hiển thị các bài đăng có nhãn tài chính hành vi. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn tài chính hành vi. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 18 tháng 12, 2009

Tâm Lý Bầy Đàn Trên Thị Trường Tài Chính

Tâm lý bầy đàn hay hành vi bầy đàn là xu hướng những cá nhân bắt chước hành động (dù hành động đó hợp lý hay vô lý) của một nhóm lớn hơn, đặc biệt là trong những hoàn cảnh mà có rất ít thời gian dể suy nghĩ đưa ra quyết định. Cũng giống như hành động của một đàn động vật, hành động hoảng sợ của một con có thể làm cả đàn dẫm đạp lên nhau bỏ chạy, thì hành động bầy đàn của con người có thể dẫn tới sự sụp đổ của cả thị trường.

Lý do của tâm lý bầy đàn có thể là lập luận cho rằng khó mà một nhóm như vậy có thể sai. Sau cùng, ngay cả khi nhà đầu tư tin rằng quyết định, ý kiến là dúng hay sai, nhà đầu tư vẫn hành động theo bầy, vì tin rằng có lẽ họ biết điều gì đó mà mình không biết, đặc biệt là khi nhà đầu tư có ý kiến thức.
Một lý do khác là sức ép khi tham gia một nhóm nào đó. Và để được chấp nhận là thành viên thì tốt nhất là hành động theo nhóm.

Cần phân biệt hành vi bầy đàn có chủ ý và trường hợp khi những nhóm khác nhau đưa ra những quyết định giống nhau từ sự phân tích độc lập của các thành viên.

Để phân loại, theo như trong tài liệu của Bikhchandani & Sharma thì chia làm 3 loại: tâm lý bầy đàn dựa theo thông tin (information-based herding), tâm lý bầy đàn dựa theo danh tiếng (reputation-based) và dựa theo thù lao (compensation-based)

Bầy đàn theo thông tin
Nhà đầu tư có thể theo dõi hành động của nhà đầu tư khác nhưng không thể biết rằng họ có nắm giữ thông tin bí mật gì không. Ngay cả, khi những cá nhân có trao đổi với nhau thì vẫn có những hoài nghi, và họ giám sát hành động thay vì chỉ bằng lời nói. Bằng cách giám sát, họ sẽ suy tính và đưa ra quyết định riêng của mình như mình họa:



Angela có thông tin, cô sẽ quyết định thông tin đó tốt hay xấu (Good (G)/Bad(B), Bob quan sát hành động của Angela và sẽ suy nghĩ. Nếu Bob quyết định giống Angela thì chuối hành đồng giống nhau bắt đầu. Claire cũng xem xét tương tự hành động của Bob.
Việc áp dụng phương tính xác suất hay trực quan cũng thấy Claire luôn hành động theo nếu Angela và Bob cùng cho rằng tốt (G) (hay xấu (B).

Kết luận rút ra là một nhà đầu tư cá nhân sẽ vào chuỗi hành động bầy đàn nếu số những người trước đó đều lựa chọn sẽ đầu tư lớn hơn số người không đầu tư từ 2 trở lên.

Nếu giá cổ phiếu trên thị trường cổ phiếu phản ánh mọi thông tin sẵn có hay nói cách khác thị trường hiệu quả về thông tin thì hành vi bầy đàn theo thông tin sẽ không xảy ra.

Bầy đàn theo danh tiếng

Một giả thuyết khác là hành vi bầy đàn theo danh tiếng của những nhà quản lý quỹ và nhân viên phân tích tài chính. Họ được thuê mướn để đưa ra những báo cáo, nhận định, dự đoán thị trường, hay giá cả. Nếu dự đoán của họ khác xa với những dự báo khác từ những fund manager hay analyst mà dự báo cũa họ lại không chính xác thì danh tiếng của họ sẽ tổn hại. Họ sẽ không được thăng tiến hay thậm chí bị sa thải. Do vậy, những fund manager hay analyst (đặc biệt là những người ít kinh nghiệm) sẽ bắt chước theo những dự đoán của những người khác. Và như thế, tâm lý bầy đàn xuất hiện.

Bầy đàn theo thù lao

Nếu mức thù lao của một quản lý đầu tư phụ thuộc vào tỉ suất lợi nhuận của danh mục đầu tư so với benchmark. Benchmark có thể là một chỉ số index hoặc tỉ suất lợi nhuận của những quản lý khác. Khi đó nhà quản lý có xu hướng lựa chọn những khoản đầu tư không hiệu quả vì nhà quản lý có thể sẽ quan sát những người khác hay benchmark để bắt chước cho theo kịp, và điều này cũng có thể dẫn tới hành vi bầy đàn. Nếu thù lao của nhà đầu tư giảm khi tỉ suát lợi nhuận nhỏ hơn benchmark thì càng có động lực để nhà quản lý bắt chước theo.

Về phương pháp đo lường

Có một vài phương pháp thống kê để tính mức độ bầy đàn như của Lakonishok,
Shleifer, and Vishny hay bản sửa đổi port-folio-change measure (PCM) của Wermers. Hai phương pháp này sẽ quan sát mỗi liên hệ giữa những nhóm nhỏ khi mua bán một loại chứng khoán. Ngoài ra, còn những phương pháp khác như của Christie and Huang, tính toán độ lệch khỏi giá trị trung bình, hay một phương pháp phức tạp của Nofsinger and Sias...

Thực tiễn

Một vài kết quả nghiên cứu

- Theo Scharfstein and Stein (1990), Graham (1999), thì bầy đàn theo danh tiếng:
+ giảm khi năng lực của nhân viên phân tích tăng;
+ tăng khi dnah tiếng ban đầu của nhân viên cao;
+ tăng khi có nhiều thông tin công khai và được củng cố bởi hành động của lãnh đạo thị trường;
+ tăng khi có nhiều dấu hiệu hiện hệ giữa những tín hiệu thông tin

- Kim and Wei quan sát thị trường Hàn Quốc từ 12/1996 tới 6/1998 và kết luận:
+ nhà đầu tư tổ chức không cư trú sử dụng chiến lược positive feedback (mua khi giá lên, bán khi giá xuống) trước khủng hoảng 11/1997, và sau khủng hoảng họ sử dụng momentum nhiều hơn;
+ nhà đầu tư tổ chức có cư trú là những nhà đầu tư xu thế ngược (contrarian) trước khủng hoảng và sau khủng hoảng họ sử dụng posistive feedback.
+ nhà đầu tư khônd cư trú tâm lý bầy đàn đáng kể hơn có cư trú; nhà đầu tư cá nhân bầy đàn đáng kể hơn nhà đầu tư tổ chức.
+ tấm lý bầy đàn của nhà đầu tư tổ chức không cư trú thể hiện ở 19 cổ phiếu Hàn Quốc được nhắc tới thường xuyên trên Wall Street Journal và những cổ phiếu có mức lợi nhuận cực cao tháng trước đó. Báo chí phương Tây càng bi quan, liên quan đến các mảng tương đương của Hàn Quốc thì nhà đầu tư không cư trú bán nhiều cổ phiếu hơn nhà đầu tư có cư trú.

- Júlio Lobão và Ana Paula Serra nghiên cứu về quỹ tương hỗ mutual funds ở Bồ Đào Nha từ 1998-2000, kết luận:
+ Cứ 100 giao dịch thì có 11 quỹ ở một bên (mua hoặc bán);
+ Mức độ bầy đàn không thay đổi nhiều theo thời gian;
+ Mức độ bầy đàn ở Bồ Đào Nha lớn hơn 4-5 lần so với số liệu ở Mỹ, Anh. Do đó, có thể mức độ bầy đàn lớn hơn ở những thị trường có nhiều biến động.

- Kingsley Fong et al nghiên cứu thị trường Australia (1994-2001) kết luận:
+ Hành vi bầy đàn ở bên bán (sell-side) mạnh hơn;
+ Quản lý quỹ có hành vi bầy đàn ở cổ phiếu nhỏ và phát triển nhiều hơn vì chúng ít thông tin minh bạch;
+ Những quản lý sử dụng chung một môi giới có tâm lý bầy đàn hơn. Môi giới thường cung cấp thông tin tốt nhất cho khách hàng quan trọng nhất, song rồi mới tới những khách hàng khác. Báo cáo nghiên cứu của môi giới có trả phí và điều này kích thích tâm lý bầy đàn tùy theo mức độ nổi tiếng của môi giới.
+ Các quản lý có xu hướng hành vi bầy đàn theo nhau tuy nhiên không chứng minh được đó là hành động chủ ý.

Thứ Hai, 14 tháng 12, 2009

Kiềm Chế Cảm Xúc

Hãy nhìn tiêu đề bài báo bên dưới.


Abu Dhabi sẽ cấp cho Dubai $10 billion để giải quyết nợ nần. Và tin này làm cho thị trường các nước châu Á hồi phục. Các chỉ số như Nikkei 225, Hang Seng, Taiwan's Taiex hay Sensex đều có những sắc xanh.
Nhưng thử hỏi chuyện của Dubai thì có liên hệ gì tới VN-Index, Kospi hay Shanghai Composite?
Nếu bạn một chương trình thời sự buổi tối trên TV, bạn không cần hiểu nội dung (ví dụ, bạn coi kênh nước ngoài), bạn nhìn vào headline ghi chỉ số index các thị trường quốc tế, chạy dưới biên tập viên. Nếu bạn thấy toàn sắc đỏ, thì ngày mai VN-Index khó mà xanh được (Tôi có test vài lần, nhưng có lẽ chưa đủ empirical evidence).

Vấn đề ở đây tôi muốn nói tới là vấn đề tâm lý. Tôi nghĩ rằng những yếu tố cơ bản sẽ cần thời gian để thể hiện trên thị trường, và nó đại diện cho xu thế dài hạn. Còn thị trường cổ phiếu hàng ngày do tác động tâm lý là chính. Những nhà đầu tư không kiềm chế được cảm xúc rất dễ mắc phải những cái bẫy như bull trap hay bear trap. Chuyện gì xảy ra khi những yếu tố vĩ mô ảnh hưởng trực tiếp đến chỉ số Index còn chưa rõ ràng mà ta lại có những tin tốt hay tin xấu ở mãi tít Trung Đông hay Hy Lạp?

Thu thập biên tập được một vài ý về kiềm chế cảm xúc khi giao dịch đầu tư chứng khoán:

1) Chỉ giao dịch với số tiền mình cho phép thất bại. Đừng mua bán vớt tất cả so tiền bạn cất công kiếm được. Ngay cả những quản lý quỹ cũng chừa tiền mặt để tiện xoay chuyển thì tại sao bạn đặt cược tất cả số tiền của mình?
2) Có một kế hoạch tốt phác thảo lý do tại sao bạn tiến hành giao dịch và trong trường hợp nào thì bạn thoát vốn, rút lui. Hãy làm theo nguyên tắc của bạn.
3) Luôn đặt stop loss khi tiến hành giao dịch, và không dịch chuyển mức stop loss này xuống.
4) Luôn dự kiến rằng việc giao dịch sẽ không theo đúng ý mình trong 50% trường hợp. Nghe có vẻ như cá cược 50-50, nhưng ý nghĩa ở đây là nếu có lỗ thì đó cũng nằm trong dự toán của bạn.
5) Không chủ quan tự cho rằng mình luôn đúng. Bạn có thể có lý do đúng khi tiến hành giao dịch, nhưng thị trường vẫn có thể lên xuống không vừa ý bạn.
6) Đừng hy vọng mọi giao dịch đều đem lại lợi nhuận. Bạn có thể lỗi ở giao dịch này, thắng ở giao dịch khác. Quan trọng là mức cân bằng cuối cùng.
7) Nhận ra rằng 90% số người bắt đầu chơi sẽ mất tiền. Đó là cái giá bạn trả đề học ở bước đầu.
8) Thực hành các kỹ thuật về quản lý tiền (ví dụ, không chấp nhận rủi ro hơn 5% số vốn ở trong mỗi trường hợp)
9) Phần lớn những người giao dịch chứng khoán thành công cũng trắng tay một hay vài lần. Vì thế, cứ coi như là ... tiền trôi (!).

Thứ Hai, 30 tháng 11, 2009

January Effect

January effect, hiệu ứng tháng 1 (còn gọi turn-of-the-year effect hay January anomaly) là một trong những hiệu ứng calendar effect quan trọng nhất. Lợi nhuận của cổ phiếu phổ thông vào tháng Một lớn hơn nhiều so với những tháng khác, và hiện tượng này là do sự tăng lên của lượng mua, sau khi giá cổ phiếu giảm vào tháng 12.
Trong khoảng thời gian cuối tháng 11 và tháng 12, giá cổ phiếu bị áp lực giảm giá vì các nhà đầu tư (bao gồm cả nhà đầu tư tổ chức) thường có xu hướng tìm cách bán cổ phiếu để tránh thuế (gọi là tax selling). Tax selling có nghĩa là khi đầu tư vào cổ phiếu một số cổ phiếu bị giảm giá, nếu bán ngay các cổ phiếu này trước 31/12 thì có thể ghi nhận một khoản lỗ. Khi đó, lợi nhuận chịu thuế sẽ giảm xuống và thuế đánh cũng sẽ giảm. Sau khi hết năm mới, người ta lại có xu hướng mua lại những cổ phiếu cũ (hoặc mua mới mà hấp dẫn).
Hiện tượng này tại cơ hội kiếm lời cho nhà đầu tư bằng cách mua cổ phiếu trước tháng một, rồi bán lại khi giá tăng.

Loại anomaly này trên thị trường tài chính chỉ có thể có trong điều kiện thị trường hoạt động không hiệu quả. Nhiều phân tích cho thấy Jannuary effect tập trung trong tuần đầu tiên và các cổ phiếu nhỏ thường có sức tăng mạnh hơn. Tuy nhiên không phải lúc nào cổ phiếu vốn hóa nhỏ cũng tốt hơn cổ phiếu vốn hóa lớn.

Một vài nghiên cứu lại cho thấy January effect không có liên hệ mật thiết với việc lách thuế, đặc biệt khi nghiên cứu ở thị trường các nước không có năm tài khóa là năm dương lịch hay luật thuế khác.

Ở Việt Nam, số liệu lịch sử quá nhỏ nên nghiên cứu có thể kết quả sẽ bị lệch. Hơn nữa các giải thích về thuế cho bộ phận nhà đầu tư cá nhân thì không đúng vì trước khi gia nhập WTO, thuế thu nhập doanh nghiệp là chủ yếu, còn thuế thu nhập cá nhân thì không được nhắc tới. Năm nay, 2009, thuế này mới bắt đầu thí điểm, trong khi ở Mỹ, loại thuế này chiếm tỉ trọng lớn trong ngân sách nhà nước.

Update 4/1/2010: Hôm nay mở đầu phiên giao dịch năm mới, thị trường chứng khoán việt Nam tăng gần hết biên độ.

Thứ Bảy, 31 tháng 10, 2009

Halloween Effect - Hiệu Ứng Halloween

Halloween effect hay halloween indicator (hiệu ứng halloween) là một biến thể của một thành ngữ Mỹ "Sell in May and go away." . Tức là ở đây người ta sẽ bán hết cổ phiếu nắm giữ vào tháng năm, rồi bỏ đi (du lịch). Hiếu ứng Halloween không có nghĩa là thị trường sẽ biến động trong ngày này mà chỉ đơn giản là người ta lấy mốc này để biết đã hết tháng 10. Ở đây người ta tin rằng khoảng thời gian từ tháng 11 đến tháng 4 (mùa đông) thị trường đem lại tăng trưởng, trong khi từ tháng 5 đến tháng 10 (mùa hè) thì thị trường ảm đạm.
Chiến thuật này đơn giản là bán hết tất cả cổ phiếu, rồi mua trái phiếu hoặc để trong tài khoản deposit account, rồi mua cổ phiểu lại vào mùa thu, loanh quanh lễ Halloween.

Những dữ liệu thống kê như của Sven Bouman and Ben Jacobsen thì ủng hộ calendar effect này, và cho thấy rằng halloween indicator ảnh hưởng mạnh ở châu Âu hơn các khu vực khác.



Ở Việt Nam thì sao?
Như tôi cũng từng nói dữ liệu lịch sử cổ phiếu ở Việt Nam quá ngắn nên việc nghiên cứu không mang tính thuyết phục lắm. Nhưng nếu lấy mốc 11/2007, thì trước đó có thấy được dấu hiệu của halloween effect. Nhưng nếu coi về sau thì hoàn toàn ngược lại. Ta xem chỉ số VN-Index:



Ngày 01/11/2007: 1057.92
Ngày 28/04/2008: 519.12
Mùa đông rớt thẳng xuống

Ngày 05/05/2008: 521.28
Ngày 31/10/2008: 30347.05
Cũng rớt nhưng thấp hơn, hơn nữa có khoảng lên điểm cuối tháng 8 lên 561.85

Khoảng mùa đông, mùa hè gần đây nhất cũng vậy. Nửa năm đầu cũng đi hình chữ V và cũng đã xuống điểm đáy của VN-Index cuối tháng, trong khi mùa hè thì xu thế đi lên (kể từ đáy tháng 2 đó).

Như vậy, halloween indicator có thể không phải là yếu tố ảnh hưởng thị trường Việt Nam. Với cách lý giải mùa hè người dân nghỉ mát đến Noel thì coi kỹ chi tiêu hơn có lẽ không hợp với Việt Nam vì người Việt Nam làm việc....quần quật quanh năm.

Nhưng cũng có thể khủng hoảng tài chính làm bóp méo tính chu kỳ, mùa vụ này chăng?

Chủ Nhật, 18 tháng 10, 2009

October Effect - Hiệu Ứng Tháng 10

Ở Mỹ, người ta thường nhắc tới thuật ngữ "October effect" vì một số nhà đầu tư lo lắng trong suốt tháng 10 bởi vì những sự kiện thị trường sập sàn trong lịch sử đều diễn ra trong tháng này. Ngày thứ Hai, thứ Ba, thứ Năm đen tối đầu xảy ra vào tháng 10/1929, sau đó là khủng hoảng Great Depression.
Thêm nữa, sự sụp đổ năm 1987 cũng xảy ra vào 19 tháng 10 khi đó chỉ số Dow Jones giảm 22.6% chỉ trong một ngày (thứ Hai đen tối).

Gần đây nhất khủng hoảng năm 2008, thị trường giảm sâu trong tháng 10, như trong ngày 6 tháng 10, 2008 chỉ số Dow Jones sụt giảm thấp nhất kể từ 2004.
Bởi vậy người ta thường lo lắng thị trường chứng khoán sẽ không tiến triển tốt trong tháng 10.

Một điều thú vị là cứ khoảng tháng 10, người dùng Internet lại tìm kiếm trên Google với từ khoá "October effect" nhiều hơn. Có thể phần nhiều là mang tính học thuật.

October effect là thuật ngữ phổ biến trong nhóm Calendar effect, một trong những nghiên cứu của tài chính hành vi (behavioral finance).

Tháng 10 ở Việt Nam

Tuổi của thị trường chứng khoán Việt Nam quá nhỏ để có thể nghiên cứu gì ở đây. Nhưng để ý là nhà đầu tư ở thị trường Việt Nam luôn nghe ngóng thông tin từ Mỹ. Lấy ví dụ Dow Jones, tôi thấy trong tuần đầu Dow thường giảm, sau đó thì phục hồi lại. VN-Index thì lại bám theo.


VN-Index tháng 10/2009

Ngoài ra, tháng 10 ở Việt Nam có một ý nghĩa khác. Tháng mười là thời điểm các công ty niêm yết nộp báo cáo tài chính quý 3. Những báo kết quả kinh doanh ước tính của quý 3 này sẽ là yếu tố phân hóa cổ phiếu.