Xin trích dịch tài liệu phân tích kỹ thuật về giá vàng
Phân Tích Kỹ Thuật Giá Vàng (P.1)
Giới Thiệu
Giá cả trên thị trường tài chính được định giá bởi tâm lý thái độ của nhà đầu tư và đầu cơ đối với những thông tin cơ bản. Vàng có lẽ gây tác động mạnh về cảm xúc hơn bất kỳ một hoại hàng hóa hay thị trường nào. Một vài nhà đầu tư gọi vàng là kim loại man rợ "barbaric metal" nhưng những người khác lại tin rằng vàng là tài sản tích trữ giá trị duy nhất và chỉ có lợi nhuận theo bản vị vàng mới phục hồi cấu trúc tài chính về trạng thái ổn định.
Cảm xúc dịch chuyển theo xu hướng và giá vàng cũng vậy. Thị trường vàng không còn khó để nhận ra xu hướng giá hơn những thị trường khác. Thực tế, giá vàng tương đối dễ phân tích từ quan điểm kỹ thuật hơn giá của bất kỳ loại hàng hóa khác bởi mức độ chuyên sâu của những công cụ phân tích sẵn có. Những công cụ này bao gồm phân tích xu hướng của giá vàng, mối liên hệ giữa vàng và thị phần vàng, và mối liên hệ giữa vàng và đường tăng giảm advance/decline (A/D) line.
Tại một thời điểm xác định, có 3 nguồn lực tác động lên giá vàng: (1) vàng được dùng như tiền, tức là một loại tiền tệ và tích trữ giá trị; (2) vàng được dùng như một kim loại công nghiệp; và (3) vàng được dùng như một nhiệt kế đo cảm xúc. Nguồn cung của bất kỳ tiền tệ nào, không giống như nguồn cung vàng, có thể được mở rộng theo chủ đích. Vì vậy tác động chính lên giá vàng là kỳ vọng hay nỗi sợ hãi của nhà đầu tư vào tến trình tương lai của lạm phát. Vàng cũng được mua bán như là một tài sản dự trữ thay thế cho USD khi đồng tiền dự trữ chủ yếu của thế giới này suy yếu.
Những thị trường bò gấu sơ cấp bị ảnh hưởng lớn bở chu kỳ kinh tế. Không chỉ có nhu cầu phòng vệ lạm phát tăng giảm theo hoạt động kinh tế mà cả nhu cầu sử dụng vàng làm kim loại công nghiệp cũng vậy. Nhu cầu cảm xúc về vàng là kết quả của sự nhận thức của nhà đầu tư về những sự kiện mang tính chính trị. Nó không liên quan đến chu kỳ kinh doanh mà lại có tác động làm thổi phồng lên trong thị thường con bò, và làm dìm thêm xuống trong thị trường con gấu. Ví dụ, việc xâm lược Afghanistan xảy ra trong suốt thị trường con bò, và nó có tác dụng mạnh mẽ lên giá vàng, trong khi đó tác động đi lên của vụ ám sát Sadat và chiến tranh Iran-Iraq, lại xảy ra trong thị trường con gấu, thì nhỏ và tạm thời.
Phân tích giá vàng đơn thuần
Giá vàng, được định giá theo USD, các công cụ bắt giá khá tốt là các kỹ thuật định xu hướng như mô hình xu hướng giá, đường trung bình MA, và tỷ lệ thay đổi (rates of change). Về dài hạn, những điểm giao nhau của đường MA 12 tháng là đáng tin cậy. Những tín hiệu mua bán sử dụng chỉ báo know sure thing (KST) hàng tháng cũng khá chính xác.
(còn tiếp)
Hiển thị các bài đăng có nhãn phân tích kỹ thuật. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn phân tích kỹ thuật. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Ba, 16 tháng 3, 2010
Thứ Sáu, 18 tháng 12, 2009
Tâm Lý Bầy Đàn Trên Thị Trường Tài Chính
Tâm lý bầy đàn hay hành vi bầy đàn là xu hướng những cá nhân bắt chước hành động (dù hành động đó hợp lý hay vô lý) của một nhóm lớn hơn, đặc biệt là trong những hoàn cảnh mà có rất ít thời gian dể suy nghĩ đưa ra quyết định. Cũng giống như hành động của một đàn động vật, hành động hoảng sợ của một con có thể làm cả đàn dẫm đạp lên nhau bỏ chạy, thì hành động bầy đàn của con người có thể dẫn tới sự sụp đổ của cả thị trường.
Lý do của tâm lý bầy đàn có thể là lập luận cho rằng khó mà một nhóm như vậy có thể sai. Sau cùng, ngay cả khi nhà đầu tư tin rằng quyết định, ý kiến là dúng hay sai, nhà đầu tư vẫn hành động theo bầy, vì tin rằng có lẽ họ biết điều gì đó mà mình không biết, đặc biệt là khi nhà đầu tư có ý kiến thức.
Một lý do khác là sức ép khi tham gia một nhóm nào đó. Và để được chấp nhận là thành viên thì tốt nhất là hành động theo nhóm.
Cần phân biệt hành vi bầy đàn có chủ ý và trường hợp khi những nhóm khác nhau đưa ra những quyết định giống nhau từ sự phân tích độc lập của các thành viên.
Để phân loại, theo như trong tài liệu của Bikhchandani & Sharma thì chia làm 3 loại: tâm lý bầy đàn dựa theo thông tin (information-based herding), tâm lý bầy đàn dựa theo danh tiếng (reputation-based) và dựa theo thù lao (compensation-based)
Bầy đàn theo thông tin
Nhà đầu tư có thể theo dõi hành động của nhà đầu tư khác nhưng không thể biết rằng họ có nắm giữ thông tin bí mật gì không. Ngay cả, khi những cá nhân có trao đổi với nhau thì vẫn có những hoài nghi, và họ giám sát hành động thay vì chỉ bằng lời nói. Bằng cách giám sát, họ sẽ suy tính và đưa ra quyết định riêng của mình như mình họa:
Angela có thông tin, cô sẽ quyết định thông tin đó tốt hay xấu (Good (G)/Bad(B), Bob quan sát hành động của Angela và sẽ suy nghĩ. Nếu Bob quyết định giống Angela thì chuối hành đồng giống nhau bắt đầu. Claire cũng xem xét tương tự hành động của Bob.
Việc áp dụng phương tính xác suất hay trực quan cũng thấy Claire luôn hành động theo nếu Angela và Bob cùng cho rằng tốt (G) (hay xấu (B).
Kết luận rút ra là một nhà đầu tư cá nhân sẽ vào chuỗi hành động bầy đàn nếu số những người trước đó đều lựa chọn sẽ đầu tư lớn hơn số người không đầu tư từ 2 trở lên.
Nếu giá cổ phiếu trên thị trường cổ phiếu phản ánh mọi thông tin sẵn có hay nói cách khác thị trường hiệu quả về thông tin thì hành vi bầy đàn theo thông tin sẽ không xảy ra.
Bầy đàn theo danh tiếng
Một giả thuyết khác là hành vi bầy đàn theo danh tiếng của những nhà quản lý quỹ và nhân viên phân tích tài chính. Họ được thuê mướn để đưa ra những báo cáo, nhận định, dự đoán thị trường, hay giá cả. Nếu dự đoán của họ khác xa với những dự báo khác từ những fund manager hay analyst mà dự báo cũa họ lại không chính xác thì danh tiếng của họ sẽ tổn hại. Họ sẽ không được thăng tiến hay thậm chí bị sa thải. Do vậy, những fund manager hay analyst (đặc biệt là những người ít kinh nghiệm) sẽ bắt chước theo những dự đoán của những người khác. Và như thế, tâm lý bầy đàn xuất hiện.
Bầy đàn theo thù lao
Nếu mức thù lao của một quản lý đầu tư phụ thuộc vào tỉ suất lợi nhuận của danh mục đầu tư so với benchmark. Benchmark có thể là một chỉ số index hoặc tỉ suất lợi nhuận của những quản lý khác. Khi đó nhà quản lý có xu hướng lựa chọn những khoản đầu tư không hiệu quả vì nhà quản lý có thể sẽ quan sát những người khác hay benchmark để bắt chước cho theo kịp, và điều này cũng có thể dẫn tới hành vi bầy đàn. Nếu thù lao của nhà đầu tư giảm khi tỉ suát lợi nhuận nhỏ hơn benchmark thì càng có động lực để nhà quản lý bắt chước theo.
Về phương pháp đo lường
Có một vài phương pháp thống kê để tính mức độ bầy đàn như của Lakonishok,
Shleifer, and Vishny hay bản sửa đổi port-folio-change measure (PCM) của Wermers. Hai phương pháp này sẽ quan sát mỗi liên hệ giữa những nhóm nhỏ khi mua bán một loại chứng khoán. Ngoài ra, còn những phương pháp khác như của Christie and Huang, tính toán độ lệch khỏi giá trị trung bình, hay một phương pháp phức tạp của Nofsinger and Sias...
Thực tiễn
Một vài kết quả nghiên cứu
- Theo Scharfstein and Stein (1990), Graham (1999), thì bầy đàn theo danh tiếng:
+ giảm khi năng lực của nhân viên phân tích tăng;
+ tăng khi dnah tiếng ban đầu của nhân viên cao;
+ tăng khi có nhiều thông tin công khai và được củng cố bởi hành động của lãnh đạo thị trường;
+ tăng khi có nhiều dấu hiệu hiện hệ giữa những tín hiệu thông tin
- Kim and Wei quan sát thị trường Hàn Quốc từ 12/1996 tới 6/1998 và kết luận:
+ nhà đầu tư tổ chức không cư trú sử dụng chiến lược positive feedback (mua khi giá lên, bán khi giá xuống) trước khủng hoảng 11/1997, và sau khủng hoảng họ sử dụng momentum nhiều hơn;
+ nhà đầu tư tổ chức có cư trú là những nhà đầu tư xu thế ngược (contrarian) trước khủng hoảng và sau khủng hoảng họ sử dụng posistive feedback.
+ nhà đầu tư khônd cư trú tâm lý bầy đàn đáng kể hơn có cư trú; nhà đầu tư cá nhân bầy đàn đáng kể hơn nhà đầu tư tổ chức.
+ tấm lý bầy đàn của nhà đầu tư tổ chức không cư trú thể hiện ở 19 cổ phiếu Hàn Quốc được nhắc tới thường xuyên trên Wall Street Journal và những cổ phiếu có mức lợi nhuận cực cao tháng trước đó. Báo chí phương Tây càng bi quan, liên quan đến các mảng tương đương của Hàn Quốc thì nhà đầu tư không cư trú bán nhiều cổ phiếu hơn nhà đầu tư có cư trú.
- Júlio Lobão và Ana Paula Serra nghiên cứu về quỹ tương hỗ mutual funds ở Bồ Đào Nha từ 1998-2000, kết luận:
+ Cứ 100 giao dịch thì có 11 quỹ ở một bên (mua hoặc bán);
+ Mức độ bầy đàn không thay đổi nhiều theo thời gian;
+ Mức độ bầy đàn ở Bồ Đào Nha lớn hơn 4-5 lần so với số liệu ở Mỹ, Anh. Do đó, có thể mức độ bầy đàn lớn hơn ở những thị trường có nhiều biến động.
- Kingsley Fong et al nghiên cứu thị trường Australia (1994-2001) kết luận:
+ Hành vi bầy đàn ở bên bán (sell-side) mạnh hơn;
+ Quản lý quỹ có hành vi bầy đàn ở cổ phiếu nhỏ và phát triển nhiều hơn vì chúng ít thông tin minh bạch;
+ Những quản lý sử dụng chung một môi giới có tâm lý bầy đàn hơn. Môi giới thường cung cấp thông tin tốt nhất cho khách hàng quan trọng nhất, song rồi mới tới những khách hàng khác. Báo cáo nghiên cứu của môi giới có trả phí và điều này kích thích tâm lý bầy đàn tùy theo mức độ nổi tiếng của môi giới.
+ Các quản lý có xu hướng hành vi bầy đàn theo nhau tuy nhiên không chứng minh được đó là hành động chủ ý.
Lý do của tâm lý bầy đàn có thể là lập luận cho rằng khó mà một nhóm như vậy có thể sai. Sau cùng, ngay cả khi nhà đầu tư tin rằng quyết định, ý kiến là dúng hay sai, nhà đầu tư vẫn hành động theo bầy, vì tin rằng có lẽ họ biết điều gì đó mà mình không biết, đặc biệt là khi nhà đầu tư có ý kiến thức.
Một lý do khác là sức ép khi tham gia một nhóm nào đó. Và để được chấp nhận là thành viên thì tốt nhất là hành động theo nhóm.
Cần phân biệt hành vi bầy đàn có chủ ý và trường hợp khi những nhóm khác nhau đưa ra những quyết định giống nhau từ sự phân tích độc lập của các thành viên.
Để phân loại, theo như trong tài liệu của Bikhchandani & Sharma thì chia làm 3 loại: tâm lý bầy đàn dựa theo thông tin (information-based herding), tâm lý bầy đàn dựa theo danh tiếng (reputation-based) và dựa theo thù lao (compensation-based)
Bầy đàn theo thông tin
Nhà đầu tư có thể theo dõi hành động của nhà đầu tư khác nhưng không thể biết rằng họ có nắm giữ thông tin bí mật gì không. Ngay cả, khi những cá nhân có trao đổi với nhau thì vẫn có những hoài nghi, và họ giám sát hành động thay vì chỉ bằng lời nói. Bằng cách giám sát, họ sẽ suy tính và đưa ra quyết định riêng của mình như mình họa:
Angela có thông tin, cô sẽ quyết định thông tin đó tốt hay xấu (Good (G)/Bad(B), Bob quan sát hành động của Angela và sẽ suy nghĩ. Nếu Bob quyết định giống Angela thì chuối hành đồng giống nhau bắt đầu. Claire cũng xem xét tương tự hành động của Bob.
Việc áp dụng phương tính xác suất hay trực quan cũng thấy Claire luôn hành động theo nếu Angela và Bob cùng cho rằng tốt (G) (hay xấu (B).
Kết luận rút ra là một nhà đầu tư cá nhân sẽ vào chuỗi hành động bầy đàn nếu số những người trước đó đều lựa chọn sẽ đầu tư lớn hơn số người không đầu tư từ 2 trở lên.
Nếu giá cổ phiếu trên thị trường cổ phiếu phản ánh mọi thông tin sẵn có hay nói cách khác thị trường hiệu quả về thông tin thì hành vi bầy đàn theo thông tin sẽ không xảy ra.
Bầy đàn theo danh tiếng
Một giả thuyết khác là hành vi bầy đàn theo danh tiếng của những nhà quản lý quỹ và nhân viên phân tích tài chính. Họ được thuê mướn để đưa ra những báo cáo, nhận định, dự đoán thị trường, hay giá cả. Nếu dự đoán của họ khác xa với những dự báo khác từ những fund manager hay analyst mà dự báo cũa họ lại không chính xác thì danh tiếng của họ sẽ tổn hại. Họ sẽ không được thăng tiến hay thậm chí bị sa thải. Do vậy, những fund manager hay analyst (đặc biệt là những người ít kinh nghiệm) sẽ bắt chước theo những dự đoán của những người khác. Và như thế, tâm lý bầy đàn xuất hiện.
Bầy đàn theo thù lao
Nếu mức thù lao của một quản lý đầu tư phụ thuộc vào tỉ suất lợi nhuận của danh mục đầu tư so với benchmark. Benchmark có thể là một chỉ số index hoặc tỉ suất lợi nhuận của những quản lý khác. Khi đó nhà quản lý có xu hướng lựa chọn những khoản đầu tư không hiệu quả vì nhà quản lý có thể sẽ quan sát những người khác hay benchmark để bắt chước cho theo kịp, và điều này cũng có thể dẫn tới hành vi bầy đàn. Nếu thù lao của nhà đầu tư giảm khi tỉ suát lợi nhuận nhỏ hơn benchmark thì càng có động lực để nhà quản lý bắt chước theo.
Về phương pháp đo lường
Có một vài phương pháp thống kê để tính mức độ bầy đàn như của Lakonishok,
Shleifer, and Vishny hay bản sửa đổi port-folio-change measure (PCM) của Wermers. Hai phương pháp này sẽ quan sát mỗi liên hệ giữa những nhóm nhỏ khi mua bán một loại chứng khoán. Ngoài ra, còn những phương pháp khác như của Christie and Huang, tính toán độ lệch khỏi giá trị trung bình, hay một phương pháp phức tạp của Nofsinger and Sias...
Thực tiễn
Một vài kết quả nghiên cứu
- Theo Scharfstein and Stein (1990), Graham (1999), thì bầy đàn theo danh tiếng:
+ giảm khi năng lực của nhân viên phân tích tăng;
+ tăng khi dnah tiếng ban đầu của nhân viên cao;
+ tăng khi có nhiều thông tin công khai và được củng cố bởi hành động của lãnh đạo thị trường;
+ tăng khi có nhiều dấu hiệu hiện hệ giữa những tín hiệu thông tin
- Kim and Wei quan sát thị trường Hàn Quốc từ 12/1996 tới 6/1998 và kết luận:
+ nhà đầu tư tổ chức không cư trú sử dụng chiến lược positive feedback (mua khi giá lên, bán khi giá xuống) trước khủng hoảng 11/1997, và sau khủng hoảng họ sử dụng momentum nhiều hơn;
+ nhà đầu tư tổ chức có cư trú là những nhà đầu tư xu thế ngược (contrarian) trước khủng hoảng và sau khủng hoảng họ sử dụng posistive feedback.
+ nhà đầu tư khônd cư trú tâm lý bầy đàn đáng kể hơn có cư trú; nhà đầu tư cá nhân bầy đàn đáng kể hơn nhà đầu tư tổ chức.
+ tấm lý bầy đàn của nhà đầu tư tổ chức không cư trú thể hiện ở 19 cổ phiếu Hàn Quốc được nhắc tới thường xuyên trên Wall Street Journal và những cổ phiếu có mức lợi nhuận cực cao tháng trước đó. Báo chí phương Tây càng bi quan, liên quan đến các mảng tương đương của Hàn Quốc thì nhà đầu tư không cư trú bán nhiều cổ phiếu hơn nhà đầu tư có cư trú.
- Júlio Lobão và Ana Paula Serra nghiên cứu về quỹ tương hỗ mutual funds ở Bồ Đào Nha từ 1998-2000, kết luận:
+ Cứ 100 giao dịch thì có 11 quỹ ở một bên (mua hoặc bán);
+ Mức độ bầy đàn không thay đổi nhiều theo thời gian;
+ Mức độ bầy đàn ở Bồ Đào Nha lớn hơn 4-5 lần so với số liệu ở Mỹ, Anh. Do đó, có thể mức độ bầy đàn lớn hơn ở những thị trường có nhiều biến động.
- Kingsley Fong et al nghiên cứu thị trường Australia (1994-2001) kết luận:
+ Hành vi bầy đàn ở bên bán (sell-side) mạnh hơn;
+ Quản lý quỹ có hành vi bầy đàn ở cổ phiếu nhỏ và phát triển nhiều hơn vì chúng ít thông tin minh bạch;
+ Những quản lý sử dụng chung một môi giới có tâm lý bầy đàn hơn. Môi giới thường cung cấp thông tin tốt nhất cho khách hàng quan trọng nhất, song rồi mới tới những khách hàng khác. Báo cáo nghiên cứu của môi giới có trả phí và điều này kích thích tâm lý bầy đàn tùy theo mức độ nổi tiếng của môi giới.
+ Các quản lý có xu hướng hành vi bầy đàn theo nhau tuy nhiên không chứng minh được đó là hành động chủ ý.
Thứ Bảy, 31 tháng 10, 2009
Halloween Effect - Hiệu Ứng Halloween
Halloween effect hay halloween indicator (hiệu ứng halloween) là một biến thể của một thành ngữ Mỹ "Sell in May and go away." . Tức là ở đây người ta sẽ bán hết cổ phiếu nắm giữ vào tháng năm, rồi bỏ đi (du lịch). Hiếu ứng Halloween không có nghĩa là thị trường sẽ biến động trong ngày này mà chỉ đơn giản là người ta lấy mốc này để biết đã hết tháng 10. Ở đây người ta tin rằng khoảng thời gian từ tháng 11 đến tháng 4 (mùa đông) thị trường đem lại tăng trưởng, trong khi từ tháng 5 đến tháng 10 (mùa hè) thì thị trường ảm đạm.
Chiến thuật này đơn giản là bán hết tất cả cổ phiếu, rồi mua trái phiếu hoặc để trong tài khoản deposit account, rồi mua cổ phiểu lại vào mùa thu, loanh quanh lễ Halloween.
Những dữ liệu thống kê như của Sven Bouman and Ben Jacobsen thì ủng hộ calendar effect này, và cho thấy rằng halloween indicator ảnh hưởng mạnh ở châu Âu hơn các khu vực khác.

Ở Việt Nam thì sao?
Như tôi cũng từng nói dữ liệu lịch sử cổ phiếu ở Việt Nam quá ngắn nên việc nghiên cứu không mang tính thuyết phục lắm. Nhưng nếu lấy mốc 11/2007, thì trước đó có thấy được dấu hiệu của halloween effect. Nhưng nếu coi về sau thì hoàn toàn ngược lại. Ta xem chỉ số VN-Index:

Ngày 01/11/2007: 1057.92
Ngày 28/04/2008: 519.12
Mùa đông rớt thẳng xuống
Ngày 05/05/2008: 521.28
Ngày 31/10/2008: 30347.05
Cũng rớt nhưng thấp hơn, hơn nữa có khoảng lên điểm cuối tháng 8 lên 561.85
Khoảng mùa đông, mùa hè gần đây nhất cũng vậy. Nửa năm đầu cũng đi hình chữ V và cũng đã xuống điểm đáy của VN-Index cuối tháng, trong khi mùa hè thì xu thế đi lên (kể từ đáy tháng 2 đó).
Như vậy, halloween indicator có thể không phải là yếu tố ảnh hưởng thị trường Việt Nam. Với cách lý giải mùa hè người dân nghỉ mát đến Noel thì coi kỹ chi tiêu hơn có lẽ không hợp với Việt Nam vì người Việt Nam làm việc....quần quật quanh năm.
Nhưng cũng có thể khủng hoảng tài chính làm bóp méo tính chu kỳ, mùa vụ này chăng?
Chiến thuật này đơn giản là bán hết tất cả cổ phiếu, rồi mua trái phiếu hoặc để trong tài khoản deposit account, rồi mua cổ phiểu lại vào mùa thu, loanh quanh lễ Halloween.
Những dữ liệu thống kê như của Sven Bouman and Ben Jacobsen thì ủng hộ calendar effect này, và cho thấy rằng halloween indicator ảnh hưởng mạnh ở châu Âu hơn các khu vực khác.
Ở Việt Nam thì sao?
Như tôi cũng từng nói dữ liệu lịch sử cổ phiếu ở Việt Nam quá ngắn nên việc nghiên cứu không mang tính thuyết phục lắm. Nhưng nếu lấy mốc 11/2007, thì trước đó có thấy được dấu hiệu của halloween effect. Nhưng nếu coi về sau thì hoàn toàn ngược lại. Ta xem chỉ số VN-Index:
Ngày 01/11/2007: 1057.92
Ngày 28/04/2008: 519.12
Mùa đông rớt thẳng xuống
Ngày 05/05/2008: 521.28
Ngày 31/10/2008: 30347.05
Cũng rớt nhưng thấp hơn, hơn nữa có khoảng lên điểm cuối tháng 8 lên 561.85
Khoảng mùa đông, mùa hè gần đây nhất cũng vậy. Nửa năm đầu cũng đi hình chữ V và cũng đã xuống điểm đáy của VN-Index cuối tháng, trong khi mùa hè thì xu thế đi lên (kể từ đáy tháng 2 đó).
Như vậy, halloween indicator có thể không phải là yếu tố ảnh hưởng thị trường Việt Nam. Với cách lý giải mùa hè người dân nghỉ mát đến Noel thì coi kỹ chi tiêu hơn có lẽ không hợp với Việt Nam vì người Việt Nam làm việc....quần quật quanh năm.
Nhưng cũng có thể khủng hoảng tài chính làm bóp méo tính chu kỳ, mùa vụ này chăng?
Thứ Hai, 12 tháng 10, 2009
Chứng Chỉ CMT - Chartered Market Technician
Chartered Market Technician (CMT) là một chứng chỉ về phân tích kỹ thuật do Market Technicians Association (MTA), Inc. khởi xướng. So với chứng chỉ Chartered Financial Analyst (CFA), thì CMT chỉ gói gọn trong phân tích kỹ thuật và hai chứng chỉ này độc lập với nhau vì CFA chỉ không đi sâu vào phân tích kỹ thuật. Về mức độ danh tiếng thì CFA nổi trội vì có bề dày lịch sử, và bao trùm lên nhiều lĩnh vực. Mặc dù vậy, CMT đi sâu vào phân tích kỹ thuật nên luôn được đánh giá cao. Để trờ thành một analyst chuyên nghiệp trong các tập đòan lớn như ở Mỹ thì về giáo dục, một analyst thường phải có chứng chỉ CFA, MBA hoặc CMT.
Về cách thức hoạt động thì cũng khá giống như chương trình CFA. Học viên sẽ đóng phí, thi 3 bài thi ứng với 3 level. Học viên cần đạt kinh nghiệm cần thiết để cấp designation (khi đó có thể ghi chữ CMT sau tên mình), và học viên sẽ đóng phi duy trì hàng năm.
Mức phí (hiện tại):
Phí thường niên: $300
Đăng kí làm affiliate: $250
Level 1: $250
Level 2: $450
Level 3: $450
So với CFA, thì mức phí này nhẹ hơn nhiều. Nhận thanh toán online qua Mastercard,Visa và American Express ngay khi đăng kí.
Phí duy trì hàng năm: $300
Nội dung và thời gian:
Học toàn về phân tích kỹ thuật, lý thuyết Dow, lý thuyết Fibonacci, lý thuyết Elliott Wave, biểu đồ đủ loại kể cả hình nến Nhật Bản,...về cổ phiếu, trái phiếu, ngoại hối forex, các giao dịch futures...Một điểm giống nhau với CFA là CMT cũng đề cao vai trò của quy tắc đạo đức (Code Of Ethnics), học viên thường phải đạt trên 70% ở những câu hỏi về vấn đề này.
Level 1: 120 câu trắc nghiệm, 2 tiếng
Level 2: 150 câu trắc nghiệm, 4 tiếng
Level 3: viết bài luận, 4 tiếng
Địa điểm thi:
Trong brochure của MTA thì có 300 điểm thi toàn cầu, nhưng không thấy ghi rõ có test center nào ở Việt Nam (hình như ở Việt Nam không có, và có thể phải thi ở India, Malaysia, hay Japan (?)).
Điểm đậu:
Khoảng 70%.
Tài liệu học CMT:
MTA quy định những phần khác nhau ứng với mỗi level. MTA không in sách (trừ 1 trang về Code & Ethics) mà yêu cầu học những chương khác nhau của một số cuốn sách tùy level:
Ví dụ: Level 1/2010:
- Technical Analysis of Stock Trends, 9th Edition, của Edwards, Robert D. and Magee, John.
- Technical Analysis The Complete Resource for Financial Market Technicians của Kirkpatrick, Charles D. and Dahlquist, Julie R
- Technical Analysis Explained, 4th Edition của Pring, Martin J.
Xem chi tiết
Thời gian học:
Cho mỗi level là 100 giờ, 140 giờ, và 160 giờ.
Trang chủ: http://www.mta.org
CMT là chương trình phân tích kỹ thuật được chuẩn hóa nên thu hút được một số lượng đáng kể nhà các analyst thiên về kỹ thuật.
Update 6/4/2010
- Ở Việt Nam, có một Prometric test center, là nơi tổ chức các kỳ thi CMT:
Địa chỉ là:
8477: HO CHI MINH, VIETNAM #8477
NHAT NGHE EDUCATION JSC,
70 Ba Huyen Thanh Quan Street, District 3
HO CHI MINH CITY
- Để đăng kí thi CMT, đầu tiên bạn tham gia làm affiliate bằng cách đăng kí tại trang chủ của MTA, làm theo các bước và đóng phí đăng kí (registration fee), cái này đóng một lần.
+ Sau khi đăng kí affliate và đóng phí registration fee, bạn sẽ có MTA ID Number và có thể chọn kỳ thi để đăng kí (trong tài khoản của mình), và bạn sẽ đóng phí cho từng kỳ thi.
+ Sau khi đăng kí & đóng lệ phí cho kỳ thi, bạn sẽ click qua một trang khác là Prometric (prometric.com) để sắp xếp lịch thi. (Mục Test Takers chọn "Academic, Professional, Gov’t and Corporate"; testing program thì chọn "Market Technicians Association, Inc", rồi tiếp đó chọn lịch thi.
Về cách thức hoạt động thì cũng khá giống như chương trình CFA. Học viên sẽ đóng phí, thi 3 bài thi ứng với 3 level. Học viên cần đạt kinh nghiệm cần thiết để cấp designation (khi đó có thể ghi chữ CMT sau tên mình), và học viên sẽ đóng phi duy trì hàng năm.
Mức phí (hiện tại):
Phí thường niên: $300
Đăng kí làm affiliate: $250
Level 1: $250
Level 2: $450
Level 3: $450
So với CFA, thì mức phí này nhẹ hơn nhiều. Nhận thanh toán online qua Mastercard,Visa và American Express ngay khi đăng kí.
Phí duy trì hàng năm: $300
Nội dung và thời gian:
Học toàn về phân tích kỹ thuật, lý thuyết Dow, lý thuyết Fibonacci, lý thuyết Elliott Wave, biểu đồ đủ loại kể cả hình nến Nhật Bản,...về cổ phiếu, trái phiếu, ngoại hối forex, các giao dịch futures...Một điểm giống nhau với CFA là CMT cũng đề cao vai trò của quy tắc đạo đức (Code Of Ethnics), học viên thường phải đạt trên 70% ở những câu hỏi về vấn đề này.
Level 1: 120 câu trắc nghiệm, 2 tiếng
Level 2: 150 câu trắc nghiệm, 4 tiếng
Level 3: viết bài luận, 4 tiếng
Địa điểm thi:
Trong brochure của MTA thì có 300 điểm thi toàn cầu, nhưng không thấy ghi rõ có test center nào ở Việt Nam (hình như ở Việt Nam không có, và có thể phải thi ở India, Malaysia, hay Japan (?)).
Điểm đậu:
Khoảng 70%.
Tài liệu học CMT:
MTA quy định những phần khác nhau ứng với mỗi level. MTA không in sách (trừ 1 trang về Code & Ethics) mà yêu cầu học những chương khác nhau của một số cuốn sách tùy level:
Ví dụ: Level 1/2010:
- Technical Analysis of Stock Trends, 9th Edition, của Edwards, Robert D. and Magee, John.
- Technical Analysis The Complete Resource for Financial Market Technicians của Kirkpatrick, Charles D. and Dahlquist, Julie R
- Technical Analysis Explained, 4th Edition của Pring, Martin J.
Xem chi tiết
Thời gian học:
Cho mỗi level là 100 giờ, 140 giờ, và 160 giờ.
Trang chủ: http://www.mta.org
CMT là chương trình phân tích kỹ thuật được chuẩn hóa nên thu hút được một số lượng đáng kể nhà các analyst thiên về kỹ thuật.
Update 6/4/2010
- Ở Việt Nam, có một Prometric test center, là nơi tổ chức các kỳ thi CMT:
Địa chỉ là:
8477: HO CHI MINH, VIETNAM #8477
NHAT NGHE EDUCATION JSC,
70 Ba Huyen Thanh Quan Street, District 3
HO CHI MINH CITY
- Để đăng kí thi CMT, đầu tiên bạn tham gia làm affiliate bằng cách đăng kí tại trang chủ của MTA, làm theo các bước và đóng phí đăng kí (registration fee), cái này đóng một lần.
+ Sau khi đăng kí affliate và đóng phí registration fee, bạn sẽ có MTA ID Number và có thể chọn kỳ thi để đăng kí (trong tài khoản của mình), và bạn sẽ đóng phí cho từng kỳ thi.
+ Sau khi đăng kí & đóng lệ phí cho kỳ thi, bạn sẽ click qua một trang khác là Prometric (prometric.com) để sắp xếp lịch thi. (Mục Test Takers chọn "Academic, Professional, Gov’t and Corporate"; testing program thì chọn "Market Technicians Association, Inc", rồi tiếp đó chọn lịch thi.
Thứ Bảy, 4 tháng 7, 2009
Bull Trap - Bear Trap
Bull Trap
Một dấu hiệu giả cho thấy cổ phiếu (hoặc một loại chứng khoán, chỉ số index) đang đổi chiều và đi lên, nhưng thực tế cổ phiếu tiếp tục đi xuống sau khi các dấu hiệu này chấm dứt. Đây được coi là một cái bẫy bởi vì người ta thấy những dấu hiệu đi lên này sẽ mua cổ phiếu hy vọng kiếm lời từ việc cổ phiếu đi lên, nhưng họ bị "mắc bẫy" với khoản đầu tư của mình khi nhận ra giá vẫn đi xuống.
Tạm dịch là "bẫy lên", "bẫy tăng giá" hay "bẫy phục hồi".
Nhận biết bull trap (chỉ mang tính tham khảo)
1. Thị trường thường di chuyển theo những xu hướng và phản ánh suy nghĩ của nhóm nhà nhà đầu tư. Thị trường không đảo chiều trong ngày một mà những yếu tố cơ bản cần thời gian và lý do để thay đổi. Nên sẽ có một vài bước tiến trước khi đảo chiều
2. Việc điều chỉnh được thấy trước khi thị trường dịch chuyển quá mạnh. Khi đó nhà đầu tư chốt lời hoặc cắt lỗ. Và việc điều chỉnh này có thể hình thành một bull trap (hoặc bear trap)
Ví dụ: khi nhà đầu tư cơ bản tận dụng giá rẻ để mua thêm cổ phiếu, có thể sẽ tạo ra một sóng nhỏ đi lên, nhưng thị trường có thể tiếp tục lại đi xuống.
3. Trong khủng hoảng, một số tin tức tốt vẫn có thể xuất hiện. Tuy nhiên những vấn đề về khủng hoảng không thể giải quyết trong ngày một nên những tin tức tốt kia có thể tạo ra những cái bẫy.
Bear Trap
Trái ngược với bull trap là bear trap (tạm dịch là bẫy xuống, bẫy giảm giá). Bear trap là tình hình mà mà thị trường vẫn tiếp tục chiều đi lên mà những nhà đầu tư thấy một dấu hiệu đi xuống và nghĩ rằng thị trường đang đi xuống. Nhà đầu tư sẽ bán khống để hy vọng kiếm lời nhưng cuối cùng phải mua với giá cao và chấp nhận lỗ.
Ở Việt Nam không (hoặc chưa) cho bán khống nên bear trap không có ý nghĩa lắm.
Một dấu hiệu giả cho thấy cổ phiếu (hoặc một loại chứng khoán, chỉ số index) đang đổi chiều và đi lên, nhưng thực tế cổ phiếu tiếp tục đi xuống sau khi các dấu hiệu này chấm dứt. Đây được coi là một cái bẫy bởi vì người ta thấy những dấu hiệu đi lên này sẽ mua cổ phiếu hy vọng kiếm lời từ việc cổ phiếu đi lên, nhưng họ bị "mắc bẫy" với khoản đầu tư của mình khi nhận ra giá vẫn đi xuống.
Tạm dịch là "bẫy lên", "bẫy tăng giá" hay "bẫy phục hồi".
Nhận biết bull trap (chỉ mang tính tham khảo)
1. Thị trường thường di chuyển theo những xu hướng và phản ánh suy nghĩ của nhóm nhà nhà đầu tư. Thị trường không đảo chiều trong ngày một mà những yếu tố cơ bản cần thời gian và lý do để thay đổi. Nên sẽ có một vài bước tiến trước khi đảo chiều
2. Việc điều chỉnh được thấy trước khi thị trường dịch chuyển quá mạnh. Khi đó nhà đầu tư chốt lời hoặc cắt lỗ. Và việc điều chỉnh này có thể hình thành một bull trap (hoặc bear trap)
Ví dụ: khi nhà đầu tư cơ bản tận dụng giá rẻ để mua thêm cổ phiếu, có thể sẽ tạo ra một sóng nhỏ đi lên, nhưng thị trường có thể tiếp tục lại đi xuống.
3. Trong khủng hoảng, một số tin tức tốt vẫn có thể xuất hiện. Tuy nhiên những vấn đề về khủng hoảng không thể giải quyết trong ngày một nên những tin tức tốt kia có thể tạo ra những cái bẫy.
Bear Trap
Trái ngược với bull trap là bear trap (tạm dịch là bẫy xuống, bẫy giảm giá). Bear trap là tình hình mà mà thị trường vẫn tiếp tục chiều đi lên mà những nhà đầu tư thấy một dấu hiệu đi xuống và nghĩ rằng thị trường đang đi xuống. Nhà đầu tư sẽ bán khống để hy vọng kiếm lời nhưng cuối cùng phải mua với giá cao và chấp nhận lỗ.
Ở Việt Nam không (hoặc chưa) cho bán khống nên bear trap không có ý nghĩa lắm.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)